The New York Times từng nói gì về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn?
The New York Times – một trong những tờ báo lâu đời nhất Hoa Kỳ – đã nhiều lần đưa tin về Trịnh Công Sơn như một biểu tượng của chủ nghĩa hòa bình qua các ca khúc phản chiến.
Sức sống trong những
tác phẩm âm nhạc của Trịnh Công Sơn không những chỉ gói gọn ở trong nước, mà
còn vang danh đến nhiều quốc gia trên thế giới như Anh quốc, Nhật Bản hay Hoa Kỳ.
Trong giai đoạn thập niên 1960 và 1970, ông được công luận quốc tế biết đến là
tác giả của hang loạt ca khúc phản chiến và được mệnh danh là Bob Dylan của Việt
Nam.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001). Ảnh: Hội nhạc sĩ Việt Nam |
Vào thời điểm nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn qua đời, rất nhiều tờ báo quốc tế, đặc biệt là tại Hoa Kỳ đã
đưa tin về sự ra đi của ông như Los
Angeles Times, The
Washington Post, The
New York Times. Vào năm 2019, nhạc
sị Trịnh Công Sơn được Google vinh danh trên trang tìm kiếm Goodle Doodles
nhân dịp sinh nhật lần thứ 80 của ông.
Nhạc sị Trịnh Công Sơn được Google vinh danh trên trang tìm kiếm Goodle Doodles vào năm 2019 |
Trong những ngày
mà nhiều người đang bày tỏ sự quan tâm đến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua tác phẩm Em
và Trịnh được công chiếu tại Việt Nam thời gian qua, dưới góc nhìn truyền
thông quốc tế, hãy cùng nhau điểm lại những lần
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được tờ The New York Times nhắc đến trong các bài
viết của mình như một biểu tượng của chủ nghĩa hòa bình qua nhiều ca khúc phản
chiến mà ông gửi gắm cho đồng bào Việt Nam.
Năm 1968: “Một nghệ sĩ guitar Việt Nam kể về nỗi buồn của chiến tranh”
Đây có lẽ là lần đầu
tiên nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được The New York Times nhắc đến trong các trang
báo của mình. Tại bài viết A Vietnamese Guitarist Sings of
Sadness of War (Tạm dịch: Một nghệ
sĩ guitar Việt Nam kể về nỗi buồn của chiến tranh) của tác giả Bernard
Weinraub ngày 1/1/1968, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã được biết đến khá rộng rãi
trong giới văn nghệ sĩ và học sinh, sinh viên tại Sài Gòn với nhiều tình khúc
lãng mạn cũng như hang loạt ca khúc nói về sự vô nghĩa của chiến tranh.
Bài viết của tác giả Bernard Weinraub ngày 1/1/1968 trên the New York Times |
“Tôi chỉ muốn
miêu tả về chiến tranh, tôi muốn nói về những cái chết vô lý tại đất nước tôi.
Chiến tranh và hận thù phải kết thúc ” – bài báo dẫn lời của nhạc sĩ.
Trong bài viết, Bernard
Weinraub đã mô tả những buổi công diễn của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn luôn nhận được
nhiều sự hưởng ứng. Tác giả mô tả nhạc sĩ là một người có vẻ bẽn lẽn, giọng nói
rõ rang và nhẹ nhàng, thường mang sơ mi trắng và đôi giầy màu đen. Theo tác giả,
Âm nhạc của Trịnh Công Sơn mang nhịp điệu phương tây và có ảnh hưởng từ nhạc sĩ
Bob Dylan của Hoa Kỳ.
Năm
1969: “Sài Gòn cấm những bài hát phản chiến
của một Ca-Nhạc Sĩ Việt Nam”
Vào ngày
12/2/1969, nhà báo Joseph B. Treaster đã có một bài viết liên quan đến nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn trên The New York Times với tựa đề Saigon Bans the Antiwar Songs Of
Vietnamese Singer-Composer (Tạm dịch: Sài
Gòn cấm những bài hát phản chiến của một Ca-Nhạc Sĩ Việt Nam).
Bài viết của nhà báo Joseph B. Treaster trên The New York Times vào ngày 12/2/1969 |
Bài viết cho biết,
chính quyền miền Nam lúc bấy giờ (thời điểm đầu năm 1969) đã cấm lưu hành những
ca khúc về đề tài phản chiến của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và thu hồi rất nhiều
tác phẩm ghi âm và bản ký âm của nhạc sĩ. Việc làm này không hề có một lời giải
thích thỏa đáng nào.
Bài báo dẫn lời nhạc
sĩ: ”Tôi không hiểu vì sao tôi phải im lặng. Thật lòng mà nói, tôi phản đối
chiến tranh. Tôi không muốn làm những điều mà người khác đã làm: Làm rõ sự khác
nhau giữa chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa. Cuộc chiến nào cũng đem lại chết
chóc và hủy diệt. Tôi phản đối chiến tranh. Tại sao tôi phải im lặng?”
Tác giả cho biết
dù âm nhạc của nhạc sĩ bị cấm trên radio và truyền hình, ông vẫn tiếp tục công
diễn cùng với cây guitar của mình. Âm nhạc của ông giàu cảm xúc, lay động lòng
người. Các tác phẩm của Trịnh Công Sơn mang hơi thở phương tây lúc bấy giờ và
có sự ảnh hưởng từ Bod Dylan và Joan Baez.
Năm 1970: “Người anh hùng trẻ tuổi tại Việt Nam phản bác chiến tranh”
Vào năm 1970, nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn có thêm một lần xuất hiện trên The New York Times qua bài viết
Hero of Youth in Vietnam Assails War
(Tạm dịch: Người anh hùng trẻ tuổi tại Việt Nam phản bác chiến tranh) của
nhà báo Gloria Emerson vào ngày 6/10/1970.
Bài viết của tác giả Gloria Emerson vào ngày 6/10/1970 trên The New York Times |
Vào thời điểm này,
theo bài báo, Trịnh Công Sơn đã là một biểu tưởng của giới trẻ đương thời qua
các ca khúc phản chiến của mình. Vào lúc này, nhạc sĩ đã sáng tác hơn 150 bài
hát tính từ năm 1958. Trong cuộc trao đổi với tác giả, Trịnh Công Sơn vẫn không
ngừng lên tiếng về sự vô nghĩa của chiến tranh và luôn cầu mong những gì tốt đẹp
nhất sẽ đến.
Nhạc sĩ bắt đầu viết
30 ca khúc phản chiến vào năm 1965 và có được nhiều danh tiếng trong 3 năm sau
đó, đặc biệt là với các sinh viên Nhật Bản. Trong thời gian bị chính quyền miền
Nam hạn chế tự do âm nhạc, ông đã từng bị yêu cầu viết lời giải thích cho từng
ca khúc phản chiến để khan giả radio và truyền hình được khai tỏ nhiều hơn,
nhưng nhạc sĩ đã từ chối và cho rằng ông không có trách nhiệm giải thích.
Dù khá nổi tiếng
thời điểm này, Trịnh Công Sơn vẫn rất nghèo khi không có một dàn âm thanh của
riêng mình và không có lưu giữ bất kì đĩa hát hoặc băng ghi âm nào. Năm cuốn
sách về nhạc và lời của ông đã được xuất bản với số lượng bán ra ước tính từ
50.000 đến 80.000 bản chưa kể đến những bản thu băng cũng được bán rộng rãi, nhưng
ông không nhận được tiền bản quyền.
Tác giả còn cho biết
những bài hát mới nhất của ông trong thời điểm này mang chủ đề xã hội mạnh mẽ,
và cô ca sĩ Khánh Ly – lúc này mới 23 tuổi – là người luôn đồng hành trong âm
nhạc cùng với ông khắp miền nam.
Năm
1993: “Nhà thơ Việt Nam hát một bài ca về sự bền bỉ”
23 năm kể từ bài
viết năm 1970, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại có dịp xuất hiện trên The New York
Times qua bài viết Vietnam Poet Sings a Song Of
Endurance (Tạm dịch: Nhà thơ Việt Nam hát một
bài ca về sự bền bỉ) của nhà báo Henry Kamm vào ngày 4/4/1993.
Bài viết của nhà báo Henry Kamm vào ngày 4/4/1993 trên The New York Times |
Một lần nữa, The
New York Times khắc họa Trịnh Công Sơn là hình ảnh của niềm khát khao hòa bình
của một đất nước bị chia cắt, người đã hát về nỗi buồn của chiến tranh giữa những
người anh em cùng với nỗi đau của những người mẹ và người thân.
Bài báo kể lại về
những giai đoạn trước đó của nhạc sĩ với nhiều khó khăn khác nhau nhưng vẫn được
xem là tiếng nói của giới trẻ qua thời gian. Ngày hôm nay, Việt Nam đã hòa bình
và thống nhất. Điều này là điều quan trọng nhất đối với nhạc sĩ.
Năm 1995: ”Người nhạc sĩ 40 Năm là Trái Tim của Việt Nam”
Vào ngày 18/10/1995,
trên The New York Times, nhà báo Jon Lidén đã miêu tả Trịnh Công Sơn là Trái
tim của Việt Nam trong 40 năm qua qua bài viết Songwriter's 40 Years As 'Heart' of
Vietnam. Đây là thời điểm mà Việt Nam và Hoa
Kỳ đã chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Theo tác giả bài
viết, nếu chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cho tâm hồn Việt Nam với lòng quyết
tâm và ý chí sắt đá làm nên chiến thắng trong các cuộc chiến tranh thì Trịnh
Công Sơn chính là trái tim của Việt Nam.
Dù có khoảng thời
gian mà âm nhạc của Trịnh Công Sơn bị cấm vì bị cho là hủy hoại ý chí chiến đấu,
những ca khúc của ông đã thống nhất đất nước theo cách mà chiến tranh và chính
trị không bao giờ có thể làm được. Ai cũng yêu thích các ca khúc của ông du là
miền bắc hay miền nam. Ngay cả với những người Việt sống lưu vong, Trịnh Công
Sơn được xem là đã gửi gắm những khao khát và ký ức của họ trong các bài hát.
Các bài viết về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhiều năm về trước được The New York Times lưu trữ đầy đủ trên nền tảng trực tuyến |
Ngô Văn Tao, một
người bạn và một nhà thơ đã từng làm việc với nhạc sĩ cho biết: “Nếu bắt gặp
bất kỳ người Việt Nam nào trên đường phố, họ sẽ có thể đọc thuộc lòng một số
bài hát của anh Sơn”.
Từ những năm 1960,
Trịnh Công Sơn đã được biết đến rộng rãi trong giới sinh viên tại Sài Gòn và được
gọi là Bob Dylan của Việt Nam. Dù trong thời gian này, các tác phẩm mới của nhạc
sĩ vẫn được yêu thích, những với hầu hết các thế hệ người Việt, ông chính là đại
diện cho thời gian thập niên 1960.
Sinh ra vào năm
1939 tại Huế, miền Trung Việt Nam, Trịnh Công Sơn được giáo dục với sự kết hợp
giữa nền giáo dục truyền thống của Pháp và nền Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là
nghiên cứu văn học và nghệ thuật. Năm tháng tuổi trẻ của ông đã chứng kiến sự
ác liệt dữ dội của chiến tranh, điều khiến cho ông trở thành một người luôn căm
ghét chiến tranh.
Cuộc đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được dựng thành phim và công chiếu vào năm 2022 tại Việt Nam |
Trong những năm
1960 và 1970, những ca khúc thơ mộng và u sầu của ông được đón nhận bởi mọi người
Việt Nam ở cả hai phía của cuộc chiến. Những câu chuyện về tình yêu, sự khao
khát hòa bình là liều thuốc cần thiết cho hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh
lúc bấy giờ.
Một nghiên cứu về nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn trên website của Đại học Cambridge, Anh quốc
Trong một cuộc phỏng
vấn, ông đã trầm ngâm về hơn 40 năm như là một người viết lịch sử cho cảm xúc của
người Việt. Ông nói: “Có quá nhiều nỗi buồn ở Việt Nam”
Khi được hỏi lí do
lựa chọn ở lại Việt Nam thay vì ra đi như nhiều người khác, ông nói:
“Việt Nam là nơi
duy nhất tôi có thể sống và sáng tạo âm nhạc. Ở nước ngoài, tôi không nghe thấy
tiếng nhạc trong đầu, không nghe những bài thơ tôi viết ra. Tôi thích ở nước
ngoài, nhưng nếu tôi ở xa quá, tôi khô héo và chết. Hơi ấm con người tại Việt
Nam như nguồn nước mà hoa cần để sống”.
Năm
2001: “Trịnh Công Sơn, 62 tuổi; Người khuấy động Việt Nam với các bài hát phản
chiến”
Đây là lần cuối
cùng mà The New York Times đưa tin về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chỉ vài ngày sau
khi ông qua đời. Bài viết do nhà báo Seth Mydans thực hiện với tiêu đề Trinh
Cong Son, 62; Stirred Vietnam With War Protest Songs
(tạm dịch: Trịnh Công Sơn, 62 tuổi; Người khuấy động Việt Nam với các bài hát
phản chiến) và được đăng tải vào ngày 5/4/2001.
Bài viết của nhà báo Seth Mydans được đăng tải vào ngày 5/4/2001 trên The New York Times |
Bài viết đã đưa
tin về sự ra đi của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và cũng kể lại câu chuyện cuộc đời của
ông và ảnh hưởng của những ca khúc do ông sáng tác với các thế hệ người Việt
Nam. Sự chân thật, hồn nhiên và vẻ đẹp trong các bài hát của ông là lí do làm
cho âm nhạc của ông luôn trường tồn và được nhiều thế hệ đón nhận.
Sự nổi tiếng của
ông đạt đỉnh điểm vào những năm tháng chiến tranh, giai đoạn 1960 và 1970, và
được quốc tế gọi là Bob Dylan của Việt Nam. Ông hát về nỗi buồn chiến tranh và
khao khát hòa bình trên một đất nước bị chia cắt. Trong những năm cuối đời, ông
tham gia hội họa và vẫn sáng tác. Các ca khúc của ông về sau này thường liên
quan đến tình yêu, thân phận con người, và thiên nhiên. Tác giả cho biết “Ngủ
đi con” là một trong những ca khúc được ưa chuộng của nhạc sĩ.
Quan Dinh Writer
Comments
Post a Comment